Rùa biển (Chelonia mydas) mà dân gian hay gọi rùa xanh, con vích,v.v... chọn hòn Bảy Cạnh của Côn Đảo làm nơi hội tụ sinh sản. Phòng Khoa học và Giáo dục Môi trường Vườn quốc gia Côn Đảo cho biết: Trước năm 1975, rùa xanh ở Côn Đảo rất nhiều, tới mức chính quyền sở tại phải cử một bộ phận tù thường phạm ra hòn Bảy Cạnh, hằng ngày khai thác rùa làm thực phẩm. Thậm chí, sau ngày đất nước giải phóng, hàng hóa khan hiếm, việc đi lại khó khăn, nhiều khi người ta dùng toàn thịt vích để chế biến phục vụ đám cưới hoặc cho heo, gà ăn.

Rùa xanh to, đen kịt dùng cặp chi sau vừa gạt ngang, vừa xoắn xuống đất như hai cái thuổng bốc cát xây tổ. Chúng ngẫu nhiên chọn địa điểm dưới đám cây, nằm ở vị trí cao ráo, khuất gió, khá xa sóng biển. Cũng có những con rùa làm tổ giữa đụn cát lộ thiên, nơi có nguy cơ sẽ bị còng, cua, kỳ đà,v.v... đào bới phá tổ.

Công việc di dời chỗ đẻ cho loài rùa này là nhiệm vụ rất vất vả, mất khá nhiều thời gian, bởi nhân viên phòng Khoa học và Giáo dục Môi trường Vườn quốc gia Côn Đảo phải thực hiện qui trình lấy trứng, chuyển sang bãi ấp nhân tạo trong vòng 2 giờ lúc rùa đang “say sưa” đẻ. Rùa xanh là sinh vật biển hiền lành, nhạy cảm. Chúng bắt đầu trưởng thành từ 35 tuổi. Đến mùa sinh sản, các cá thể rùa sẽ di cư về nơi “chôn nhau cắt rốn” để làm tổ. Chúng kết đôi với rùa đực ở trước các bãi mà chúng sinh đẻ. Trước thời điểm chuyển dạ hai ngày, phôi trứng tạm ngưng phát triển và hoạt động trở lại sau khi trứng đã ra đời 2-6 giờ. Vì vậy, di dời ngay lúc mới sinh sản là an toàn nhất, không sợ va chạm làm rách phôi.

Qui trình lấy trứng rùa biển để chuyển sang bãi ấp nhân tạo: đầu tiên là chờ đợi rùa đào bới hoàn thành tổ đẻ có chiều sâu chừng 40cm. Mọi can thiệp hoặc sử dụng đèn trắng để theo dõi lúc này đều phải né tránh, vì dễ gây cho rùa hoảng sợ, quay trở về đại dương. Tiếp theo, dùng đèn đỏ xem phía sau đuôi rùa, chờ cho đến khi những quả trứng giống như quả bóng bàn lần lượt rơi xuống tổ. Bây giờ là lúc nhân viên bảo tồn rùa dùng hai tay từ từ gạt cát mở rộng tổ và nhẹ nhàng, thận trọng lấy từng quả trứng chuyền qua sọt nhựa. Tối kỵ là không được vô ý chạm tay vào bộ phận sinh sản vốn là nơi rất nhạy cảm khiến rùa tức khắc nín đẻ. Trong khi đó, khi đẻ trứng, rùa mẹ càng lúc càng xuống sức.

Trong 10 năm qua Vườn quốc gia Côn Đảo đã bấm thẻ cho trên 2.000 rùa trưởng thành nhằm kiểm tra vòng đời, số lần sinh sản một cách hệ thống theo mạng lưới bảo tồn rùa biển ASEAN. Hơn thế nữa, thẻ còn giúp các nhà bảo vệ sinh vật biển nghiên cứu vùng tìm thức ăn, đặc điểm sinh vật học từng cá thể rùa và khả năng tăng, giảm số lượng đàn tại vùng biển Côn Sơn.

Mùa sinh sản tính từ tháng 4 đến tháng 11, rùa mẹ đẻ vài ba lần hoặc nhiều hơn, mỗi lần trung bình được 90 trứng và khoảng cách giữa hai lần đẻ thường là 12, 13 ngày. Với con rùa cái bị thương, kiểm lâm viên đành phải dùng sức đùn đẩy rùa mẹ nặng trên trăm ký về phía trước hòng tránh những đợt sóng biển ngày càng gần kề.

Chuyện rùa xanh gặp sự cố ở bãi Cát Lớn là việc không hiếm. Bởi lẽ, trông nó có vẻ thảnh thơi, nhẹ nhàng, uyển chuyển lúc bơi dưới nước thì ngược lại những lúc di chuyển trên bờ rùa xanh luôn gặp khó khăn do thân xác nặng nề, vụng về. Chưa kể địa hình có khá nhiều chướng ngại vật từ rạn san hô ngầm, những ghềnh đá lởm chởm, rễ cây chằng chịt,v.v... Tất cả đều là họa vô đơn chí nếu rùa vô tình đi qua giống như cảnh ngộ một nàng rùa bị giam lỏng suốt đêm giữa bộ rễ cây chằng chịt .

Rùa con sau 57 ngày ấp trên bãi nhân tạo, được thả vào biển. Từng nhóm, từng nhóm năm, bảy rùa con cứ thế lần lượt được chuyển nhẹ nhàng từ sọt nhựa ra bãi cát. Chúng nghếch đầu nghe ngóng rồi đồng loạt bò lăng quăng xuống biển và nhanh chóng hòa mình vào sóng triều dâng. Đây là khoảng thời gian rùa con sẽ đối mặt với nhiều bất trắc, rủi ro nhất và cơ may sinh tồn là rất hiếm, vì bất kể lúc nào nó cũng có thể trở thành nguồn thức ăn cho sinh vật khác.

Việc nuôi dưỡng trực tiếp rùa con dù một vài năm vẫn khiến nó mất tính tự chủ, xáo trộn tập tính và sinh lý. Mặt khác, khi rùa nhuốm bệnh, mầm bệnh lây lan, phát tán rất cao. Hơn thế nữa, nếu dùng kinh phí tài trợ các quốc gia đang cần bảo tồn giống rùa, sinh vật biển, xét cho cùng vẫn hiệu quả hơn nhiều so với trực tiếp nuôi dưỡng. Chưa kể, thiếu nó nguồn thức ăn trong đại dương sẽ bị cạn kiệt.

Nguồn: INFOTERRA VN (Xl theo TTCT, 8/8/2007), www.vista.gov.vn