Thông tin chung

Tác giả/Author: ThS. Nguyễn Công Thành
Ngày phát hành/Issued date: 30/06/2022
Đơn vị phát hành/Issued by: Viện Nghiên cứu Hải sản

Nội dung

1) Tên nhiệm vụ: Đánh giá mức độ rủi ro ô nhiễm môi trường vùng nuôi trồng thủy sản tập trung trên biển và đề xuất giải pháp quản lý, kỹ thuật nhằm giảm thiểu rủi ro ô nhiễm

2) Cấp quản lý: Bộ NN&PTNT

3) Tổ chức chủ trì: Viện nghiên cứu Hải sản

4) Họ và tên chủ nhiệm: ThS. Nguyễn Công Thành

5) Thành viên tham gia chính:

- ThS. Trần Quang Thư

- TS. Lê Tuấn Sơn

- ThS. Trương Văn Tuân

- TS. Nguyễn Văn Nguyên

- KS. Đỗ Thị Tuyết

- ThS. Thái Thị Kim Thanh

- KS. Nguyễn Minh Đức

- KS. Nguyễn Thị Ánh

- CN. Lưu Ngọc Thiện

6) Mục tiêu của nhiệm vụ:

* Mục tiêu chung: Xác định được hiện trạng, xu thế, mức độ rủi ro ô nhiễm môi trường và đề xuất được cấc giải pháp giảm thiểu ở vùng nuôi trồng thủy sản tập trung trên biển.

* Mục tiêu cụ thể:

- Đánh giá được hiện trạng và xu thế biến động chất lượng môi trường tại một số vùng nuôi trồng thủy sản tập trung trên biển.

- Đánh giá được mức độ và nguy cơ rủi ro ô nhiễm môi trường tại một số vùng nuôi trồng thủy sản tập trung trên biển.

- Đề xuất được giải pháp quản lý, kỹ thuạt giảm thiểu rủi ro ô nhiễm ở vùng nuôi trồng thủy sản tập trung trên biển.

7) Kết quả thực hiện:

- Kết quả cho thấy chất lượng môi vùng nuôi cá biển bằng lồng bè chủ yếu bị ô nhiễm chất hữu cơ, dinh dưỡng, sự thiếu hụt ôxy, và thường có mật độ Vibrio tổng số khá cao. Các thông số môi trường cơ bản biến động trong khoảng GHCP, ngoại trừ một số khu vực nuôi có hàm lượng DO thấp hơn GHCP, độ muối giảm và độ đục tăng cao trong tháng mùa mưa. Các khu vực nuôi biển đều thể hiện ô nhiễm N-NH4+, COD và một số khu vực nuôi có mật độ Vibrio tổng số vượt ngưỡng cho phép. Nhìn chung chất lượng nước vùng nuôi và các chất ô nhiễm hữu cơ, Nts, Pts tích tụ trong trầm tích thể hiện tăng so với những năm trước đây. Mức độ ô nhiễm ở vùng nuôi cá lồng của Bà Rịa - Vũng Tàu cao nhất, tiếp đến là vùng Quảng Ninh, thấp nhất là vùng Kiên Giang.

- Đã xác định được 9 chính trong 16 thông số môi trường được đánh giá của 3 nhóm thông số bằng phương pháp PCA để đánh giá chất lượng môi trường vùng nuôi cá biển bằng lồng bè. Nhóm: thông số pH; Nhóm IV (nhóm thông số hữu cơ và muối dinh dưỡng): DO, COD, N-NH4+, P-PO43-, T-N, TSS; Nhóm V (nhóm thông số vi sinh): Coliform, Vibrio tổng số. Trong đó, bổ sung 2 thông số TSS và Vibrio tổng số so với Hướng dẫn tính toán chỉ số WQI đối với nước mặt của Tổng cục Môi trường năm 2019.

- Trên cơ sở giá trị GHCP, ngưỡng phù hợp và chuỗi giá trị thực tế quan trắc, khảo sát được của các thông số môi trường ở vùng nuôi cá biển bằng lòng bè đã xác định được chỉ số phụ Bpi và qi của 9 thông số thiết yếu/thông số chính để tính toán chỉ số WQI phù hợp với đặc trưng của vùng nuôi cá biển bằng lồng bè.

- Xây dựng và tính toán chỉ số WQI vùng nuôi cá biển bằng lồng bè theo phương pháp tính trung bình cộng có trọng số. Vùng nuôi cá biển bằng lồng bè chủ yếu là ô nhiễm hữu cơ và dinh dưỡng, do vậy đã lựa chọn trọng số của Nhóm 4 là 2, Nhóm thông số V là 1. Áp dụng tính toán chỉ số WQI đánh giá và phân mức chất lượng nước vùng nuôi cá biển bằng lồng bè ở Quảng Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu và Kiên Giang. Chất lượng môi trường nước vùng nuôi 2020 - 2021 ghi nhận được từ mức chất lượng trung bình đến mức chất lượng rất tốt, đa số ở mức chất lượng tốt.

- Đánh giá mức độ ô nhiễm T-N, T-P trong trầm tích vùng nuôi đều ghi nhận ở mức Ít ô nhiễm đến ô nhiễm trung bình, cục bộ đã ghi nhận lồng nuôi ô nhiễm nặng ở Long Sơn - Vũng tàu. Tuy nhiên, mức độ ô nhiễm ở vùng nuôi của bà Rịa - Vũng Tàu có giá trị RQ cao hơn vùng Kiên Giang, thấp nhất là vùng Quảng Ninh. Kết quả đánh giá sức tải môi trường bằng phương pháp MOM cho thấy, hầu hết khu vực nuôi ở Quảng Ninh, Kiên Giang ở mức nhỏ hơn sức tải môi trường, có những tác động nhất định đến môi trường; vùng nuôi của Bà Rịa - Vũng Tàu ở mức bằng với ngưỡng sức tải môi trường, có tác động đến môi trường.

- Xây dựng được dự thảo Hướng dẫn kỹ thuật đánh giá chất lượng môi trường vùng nuôi cá biển bằng lồng bè áp dụng cho vùng nuôi ven bờ và gần bờ. Hướng dẫn kỹ thuật bao gồm cả đánh giá chất lượng nước và đánh giá ô nhiễm môi trường trầm tích vùng nuôi.

- Trong thời gian quan trắc đã ghi nhận những đợt cá nuôi bị chết rải rác, cá nổi đầu, bỏ ăn, lở loét ở khu vực nuôi của hòn Ông Cụ, Béo Cò, Tây Hoi (Quảng Ninh) và khu nuôi ở sông Chà Và, sông Sinh (Vũng Tàu), đây là những dấu hiệu cho thấy rõ nguy cơ xảy ra sự cố môi trường nuôi rất lớn. Đồng thời đây cũng là những những khu vực nuôi có mật độ ô lồng lớn, môi trường biểu hiện ô nhiễm nhất trong các khu vực được quan trắc. Cần thực hiện các biện pháp phù hợp để phòng tránh và giảm thiểu ảnh hưởng đến hoạt động nuôi ở đây.

8) Thời gian bắt đầu - kết thúc: 01/2020 - 12/2021

9) Kinh phí thực hiện: 2.800 triệu đồng, trong đó kinh phí từ NSNN: 2.800 triệu đồng, nguồn khác: 0 triệu đồng