Ảnh minh họa

Tiềm năng nuôi biển của Việt Nam rất lớn, đặc biệt trong bối cảnh nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt, nguyên liệu phục vụ cho chế biến xuất khẩu phụ thuộc vào nhập khẩu từ nước ngoài, do vậy nước ta phải nhanh chóng chuyển hướng sang phát triển nuôi biển theo hướng công nghiệp hiện đại, bền vững. Đề án lần này kỳ vọng sẽ mở ra hướng phát triển mới trong phát triển nuôi biển, nhằm tận dụng những tiềm năng lợi thế cũng như định hướng trong “Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Một trong những nội dung định hướng quan trọng trong Chiến lược là “Phát triển nuôi biển thành một lĩnh vực sản xuất hàng hoá, khuyến khích phát triển nuôi trồng thuỷ sản quy mô công nghiệp ở các vùng biển mở; tạo khối lượng sản phẩm lớn phục vụ chế biến xuất khẩu và tiêu thụ nội địa”. Định hướng giảm dần sản lượng thủy sản khai thác, tăng sản lượng nuôi trồng cũng là một nội dung định hướng quan trọng để phát triển bền vững đã được ngành thủy sản đặt ra.

Đề án lần này cũng nhằm giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện kinh tế xã hội và nâng cao thu nhập cho cộng đồng cư dân ven biển; góp phần tham gia bảo vệ an ninh, quốc phòng vùng biển đảo của Tổ quốc.

Với mục tiêu đến năm 2025, đưa diện tích nuôi biển đạt 280 nghìn ha, thể tích lồng nuôi 10 triệu m3, phấn đấu sản lượng nuôi biển đạt 850 nghìn tấn. Đưa giá trị kim ngạch xuất khẩu của lĩnh vực nuôi biển đạt 0,8-1 tỷ USD.

Và đến năm 2030, diện tích nuôi biển đạt 300 nghìn ha, thể tích lồng nuôi 12 triệu m3, sản lượng nuôi biển đạt 1,45 triệu tấn. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8-2 tỷ USD.

Tầm nhìn đến năm 2045, ngành công nghiệp nuôi biển của nước ta đạt ở trình độ tiên tiến với phương thức quản lý hiện đại. Công nghiệp nuôi biển trở thành bộ phận quan trọng trong ngành thủy sản, có đóng góp trên 25% tổng sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 4 tỷ USD.

Hạ tầng và công nghệ cần được đầu tư tương xứng

Nội dung, nhiệm vụ của Đề án là phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ; phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng; cũng như phát triển sản xuất giống và hệ thống sản xuất thức ăn phục vụ nuôi biển.


Phát triển nuôi biển phải dựa vào điều kiện tự nhiên từng vùng
Cụ thể, đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại phục vụ phát triển nuôi biển xa bờ bao gồm các hạng mục hạ tầng thiết yếu vùng sản xuất giống phục vụ nuôi biển, vùng nuôi trồng thủy sản trên biển, công nghiệp hỗ trợ phục vụ nuôi biển, hệ thống quan trắc môi trường nuôi biển tự động. Hình thành các đội tàu dịch vụ hậu cần phục vụ nuôi biển theo hướng đa chức năng, từ vận chuyển giống, thức ăn đến thu hoạch, sơ chế, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch.

Đề án cũng đặt ra nhiệm vụ phát triển nuôi biển theo vùng. Theo đó, về phát triển nuôi biển gần bờ, ưu tiên phát triển nuôi, trồng các đối tượng có thị trường tiêu thụ và lợi thế cạnh trạnh như nhóm cá biển; nhóm giáp xác; nhóm nhuyễn thể; nhóm rong, tảo biển; sinh vật cảnh và các đối tượng nuôi biển có giá trị kinh tế khác. Áp dụng phương thức nuôi công nghiệp, ưu tiên phát triển các mô hình nuôi đa loài phù hợp với từng vùng sinh thái, sức tải môi trường, gắn với bảo vệ, phát triển nguồn lợi và đồng quản lý ở vùng bãi triều, đầm phá, rừng ngập mặn ven biển.

Về phát triển công nghiệp nuôi biển xa bờ, Đề án xác định phát triển mạnh nuôi các đối tượng có lợi thế cạnh trạnh và có thị trường tiêu thụ lớn trên vùng biển xa bờ; nhóm cá biển có giá trị kinh tế cao, nhóm nhuyễn thể và các đối tượng nuôi biển có giá trị kinh tế khác.

Áp dụng phương thức nuôi công nghiệp, hiện đại, quy mô lớn, bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu; sử dụng hệ thống lồng, bè có kết cấu và vật liệu phù hợp với từng đối tượng nuôi, chịu được biến động thời tiết (sóng to, gió lớn, bão).

Hình thành các vùng nuôi biển xa bờ tại các tỉnh trọng điểm như Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà Mau, Kiên Giang và một số địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi.

Văn Thọ

(Nguồn: Tổng cục Thủy sản)