Giải pháp cho nghề nuôi tôm ở Bến Tre

Nghề nuôi tôm ở tỉnh Bến Tre đã và đang chịu ảnh hưởng do môi trường nuôi ô nhiễm và dịch bệnh bùng phát trong ao nuôi tôm. Mặt khác, trong nuôi tôm thâm canh, thường ít thay nước nhằm hạn chế mầm bệnh lây truyền từ bên ngoài vào lại phát sinh chất lượng nước trong ao nuôi giảm rất nhanh, vật chất dinh dưỡng tích tụ ngày càng cao vào cuối vụ nuôi, sự phát triển quá mức của tảo, làm tàn lụi gây tác động xấu đến tôm như giảm hàm lượng oxy hòa tan, tạo khí độc và ô nhiễm môi trường. Việc khống chế sự phát triển quá mức của tảo trong ao nuôi tôm ở mô hình ít thay nước là rất khó khăn. Để khống chế tảo người nuôi thường dùng hóa chất và thuốc … do dó làm môi trường bị ô nhiễm và một số chất độc hoặc kháng sinh tồn lưu trong thịt tôm làm ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu và sức khỏe người tiêu dùng. Khi nước ô nhiễm sẽ phát sinh mầm bệnh, tôm bị stress và dễ mẫn cảm. Đồng thời tiếp cận những kết quả nghiên cứu trước cho thấy môi trường sống của cá măng phù hợp với môi trường nuôi tôm sú. Do vậy để giải quyết vấn đề trên và tận dụng tính ăn của cá măng, khi nuôi kết hợp với tôm sú chúng sẽ giải quyết được thức ăn dư thừa của tôm và các sản phẩm (tảo nở hoa, lab-lab), gây ô nhiễm và làm bất lợi cho tôm. Đa dạng các đối tượng nuôi có trong cùng một ao nuôi sẽ là một trong các giải pháp hữu hiệu để giảm rủi ro do thời tiết hay môi trường thay đổi, tăng khả năng tận dụng thức ăn của các đối tượng, tăng tận dụng diện tích ao nuôi, loại bỏ các chất và nguy cơ gây ô nhiễm cũng như tăng hiệu quả của hoạt động nuôi trồng thủy sản.

Xây dựng mô hình nuôi cá măng kết hợp với tôm sú trong ao đất tại tỉnh Bến Tre theo hướng bền vững

- Vị trí triển khai mô hình: 106°58'47.04"E; 9°90'09.51"N, sử dụng ao nuôi tôm sản xuất kém hiệu quả của hộ nuôi Đại lý thức ăn Ngọc Trâm, tại ấp An Hoà, xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú.

- Vị trí ao nuôi gần trục lộ giao thông, đường QL57 Bến Tre, nằm trong quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Bến Tre.

- Hệ thống kênh cấp nước gồm 01 kênh cấp nước và 1 kênh xả thải.

- Số lượng ao nuôi: 6 ao x diện tích 3.000 m2, tổng 18.000m2

- Độ sâu ao nuôi: từ 1,5 - 2,0 m

- Nền đáy ao nuôi: bùn và bùn cát.

- Số lượng ao lắng: 01 ao x diện tích 5.000 m2

Kết quả phân tích các yếu tố môi trường ao nuôi ở địa điểm lựa chọn triển khai mô hình, nước ao nuôi đều đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng nước quy định tại TCVN 13656:2023; QCVN 08-MT:2023/BTNMT. Do đó, môi trường ao nuôi ở khu vực được lựa chọn thích hợp để nuôi trồng thủy sản và đáp ứng được các yêu cầu để triển khai mô hình nuôi cá măng kết hợp với tôm sú.

Hình 1. Sơ đồ hệ thống ao nuôi mô hình

- Biến động thành phần loài tảo trong ao nuôi mô hình

Kết quả phân tích mẫu cho thấy có 5 ngành tảo được phát hiện ở các ao nuôi đơn là ngành tảo khuê (Bacillariophyta), tảo lục (Chlorophyta), tảo lam (Cyanophyta), tảo mắt (Euglenophyta) và tảo giáp (Pyrrophyta). Còn ở ao nuôi ghép cá măng với tôm sú thì kết quả cho thấy có 4 ngành tảo được phát hiện ngành tảo khuê (Bacillariophyta), tảo lục (Chlorophyta), tảo lam (Cyanophyta), và tảo giáp (Pyrrophyta), không có xuất hiện ngành tảo mắt (Euglenophyta)

Bảng 1. Cấu trúc thành phần loài tảo của ao nuôi mô hình

Ngành tảo

Mật độ 1con/3m2

Mật độ 1con/5m2

Ao nuôi đơn

Số loài

Tỷ

lệ %

Số

 loài

Tỷ

lệ %

Số

 loài

Tỷ lệ %

Bacillariophyta - Tảo khuê

14

66,67

14

63,64

13

59,09

Pyrrophyta - Tảo giáp

3

14,29

4

18,18

4

18,18

Chlorophyta - Tảo lục

2

9,52

2

9,09

2

9,09

Cyanophyta - Tảo lam

2

9,52

2

9,09

2

9,09

Euglenophyta - Tảo mắt

0

0,00

0

0,00

1

4,55

Tổng

21

100

22

100

22

100

  • Tăng trưởng khối lượng của cá măng trong các ao mô hình

Kết quả theo dõi tốc độ tăng trưởng khối lượng của cá măng ở các ao nuôi mô hình cho thấy: sau thời gian 150 ngày nuôi cá măng thương phẩm đạt khối lượng trung bình là 466,065 ± 21,29g/con và 506,40 ± 25,17g/con. Cá măng nuôi ghép ở mật độ 1 con/5m2 có khối lượng trung bình cao hơn mật độ 1 con/3m2.  

Bảng 2: Kết quả theo dõi tăng trưởng khối lượng (g/con) của các măng các ao nuôi ghép 

Ngày nuôi

Mật độ 1 con/3m2

Mật độ 1 con/5m2

Ban đầu

4,32±0,06a

4,21±0,05a

15

21,56±0,26a

24,46±0,3a

30

50,44±1,58a

59,14±1,26a

45

87,26±0,87a

89,50±0,67a

60

127,03±1,91a

139,37±1,83b

75

195,61±2,69a

204,37±2,79b

90

305,59±3,66a

317,67±3,34b

105

332,11±4,52a

356,04±3,80b

120

378,47±4,71a

446±4,01b

135

429,47±5,91a

478,7±6,22b

150

466,03±5,06a

506,78±4,73b

  • Tăng trưởng khối lượng của tôm sú trong các ao nuôi mô hình

Trong thời gian nuôi thử nghiệm ở hai ao tôm sú nuôi đơn bị nhiễm bệnh do vi khuẩn giai đoạn đầu (75-90 ngày nuôi) nên dẫn tới mật độ tôm sú giảm xuống thấp (tỷ lệ sống tôm sú còn 19-22%) thì tăng trưởng tôm sú tăng cao. So sánh về tăng trưởng khối lượng của hai mật độ ao nuôi ghép cá măng với tôm sú thì kết quả cho thấy ao nuôi ghép mật độ 1con/5m2 có tăng trưởng khối lượng cao hơn 1con/3m2, sự khác biệt này hoàn toàn có ý nghĩa trong thống kê (p<0,05). Điều này chứng tỏ vai trò của cá măng trong nuôi ghép với tôm. Khối lượng trung bình tôm sú ao nuôi đơn là 39,45±0,35g/con, tôm sú ao nuôi ghép 1con/3m2 đạt khối lượng 34,94±0,32g/con, tôm sú ao nuôi ghép 1con/5m2 đạt khối lượng 39,82±0,27g/con.

   

Hình 2: Tôm sú giống thả nuôi (hình trái) và tôm sú thu hoạch (hình phải)

Đánh giá hiệu quả của mô hình

Doanh thu của các ao nuôi ghép cá măng với tôm sú bao gồm cả doanh thu bán tôm sú thương phẩm và doanh thu bán cá măng thương phẩm. Trong khi đó doanh thu của ao nuôi đơn chỉ có doanh thu của bán tôm. Doanh thu của ao nuôi ghép cá măng mật độ 1 con/5m2 đạt 372,8 triệu đồng/ha cao hơn doanh thu của ao nuôi ghép cá măng mật độ 1 con/3m2 đạt 275,44 triệu đồng/ha, vì tỷ lệ sống và năng suất tôm sú, cá măng thu hoạch của ao nuôi ghép cá măng mật độ 1 con/5m2 đều cao hơn.

Dựa trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm mô hình nuôi cá măng kết hợp với tôm sú trong ao đất trên địa bàn xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, đề tài đã xây dựng: “Quy trình kỹ thuật nuôi cá măng kết hợp với tôm sú trong ao đất tại Bến Tre”

Hình 3. Quy trình kỹ thuật nuôi cá măng kết hợp với tôm sú trong ao đất tại Bến Tre

Quy trình kỹ thuật đã được nghiệm thu và biên soạn thành tài liệu tập huấn. Sau đó Phân viện Nghiên cứu Hải sản phía Nam đã tổ chức 2 lớp đào tạo tập huấn cán bộ kỹ thuật và 3 lớp tập huấn cho người dân nuôi trồng thuỷ sản. Các cán bộ tham gia kỹ thuật và người dân tham gia lớp tập huấn được nghe trình bày các báo cáo về đặc điểm sinh học cá măng, đặc điểm sinh học tôm sú và giải thích cơ sở khoa học của việc nuôi ghép cá măng với tôm sú trong ao đất; bên cạnh đó cũng được trang bị các kỹ thuật về quản lý môi trường ao nuôi và theo dõi sức khoẻ tôm sú và cá măng nuôi, các biện pháp phòng và trị bệnh cho tôm sú và cá măng nuôi.

 Nguyễn Thị Phương Thảo